Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

cách ắm điểm cao môn toán cho hai kì thi tốt nghiệp và kì thi tuyển sinh vào đại học

“Bật mí” cách làm bài thi tốt nghiệp môn Toán đạt điểm cao

Nội dung trọng tâm và làm bài thi đạt hiệu quả:
1) Hàm số:
- Biết cách khảo sát và vẽ đồ thị 3 loại hàm số hay gặp: bậc3, bậc 4, bậc 1/ bậc 1
- Giải được 2 bài toán tiếp tuyến: Viết phương trình tiếp tuyến tại 1 điểm, tiếp tuyến có hệ số góc cho trước.
- Bài toán giao điểm của 2 đồ thị
- Tìm max, min của hàm số trên (a; b), [a; b].
Lưu ý khi làm bài:
- Bài khảo sát hàm số cần làm đủ các bước: TXĐ, tìm giới hạn, tính y’, xét dấu y’, lập BBT, kết luận biến thiên, cực trị, chọn điểm, vẽ đồ thị.
Không vẽ đồ thị bằng bút chì
- Bài tiếp tuyến chú ý dùng đúng kí hiệu y’, y’(x0),
- Bài tương giao chú ý tìm điều kiện để hai đường cắt nhau tại m điểm như đề bài yêu cầu.
- Nếu tìm max, min của các hàm số phức tạp (như hàm logarit, hàm lượng giác,…) có thể đặt ẩn phụ. Chú ý tìm điều kiện ẩn phụ chính xác.

2) Tính tích phân:
- Sử dụng thành thạo bảng nguyên hàm
- Nhận được dạng và biết cách đổi biến số (thường là t = f(x)).
- Nắm được phương pháp tích phân từng phần
- Nhớ công thức tính diện tích, thể tích bằng tích phân.
Lưu ý khi làm bài:
- Ngay từ khi đọc đề bài, học sinh nên bấm máy tính để biết kết quả tích phân.
- Đổi biến số nhớ đổi cận, tránh viết tích phân với 2 ẩn.
- Chú ý viết đúng kí hiệu trong bài tích phân từng phần: u, v, u’, v’, du, dv
- Làm xong các em nhớ đối chiếu với kết quả của máy tính.
3) Giải phương trình, bất phương trình mũ, logarit
- Học sinh cần ghi nhớ chính xác những công thức phần này. Một số công thức hay bị nhầm.
- Biết cách đưa về cùng cơ số
- Nhận dạng và thực hành được một số trường hợp đặt ẩn phụ đơn giản, như
m.f2(x) + nf(x) + p = 0
Lưu ý khi làm bài:
- Chú ý viết đúng các ký hiệu, các dấu ngoặc.
- Tìm đầy đủ các điều kiện, nhất là với logart
- Để ý cơ số lớn hơn 1 hay nhỏ hơn 1 trong bài bất phương trình
- Dùng các công thức một cách cẩn thận, tránh ngộ nhận
Thử lại các kết quả.
4) Số phức:
- Học sinh cần nắm được đầy đủ các tên gọi (mô đun, phần thực, phần ảo,…) và 4 phép toán (cộng, trừ, nhân chia) với số phức.
- Biết biểu diễn số phức trên mặt phẳng phức.
- Chuyển qua lại giữa dạng đại số và dạng lượng giác. Nắm được 2 phép toán nhân, chia và lấy căn bậc 2 của số phức ở dạng lượng giác. Hiểu khái niệm Acgumen.
- Biết cách giải phương trình bậc 2 trên tập số phức C.
Lưu ý khi làm bài:
- Đây là một phần mới, nhiều khái niệm lạ, học sinh chưa được thực hành nhiều nên cần đọc kỹ yêu cầu của đề bài.
Không nhầm lẫn các ký hiệu: số i và số 1, mô đun và giá trị tuyệt đối, căn bậc 2 của số thực âm, phần thực, phần ảo,…
- Có thể dùng máy tính để kiểm tra các tính toán, kiểm tra kết quả.
5) Hình không gian tổng hợp:
- Nắm được các mô hình hay gặp: Chóp đều, chóp có cạnh bên vuông góc với đáy, chóp có mặt bên vuông góc với đáy, lăng trụ đều, lăng trụ đứng.
- Vẽ hình chính xác, đủ lớn, rõ ràng.
- Nắm được cách xác định đường cao. Các công thức tính thể tích.
- Biết cách dựng và tính góc, khoảng cách.
Lưu ý khi làm bài:
- Chú ý đọc kỹ đề bài để không hiểu nhầm dạng, không bỏ sót giả thiết. Có thể vẽ trước hình ra nháp, đối chiếu đề bài, thấy đúng thì vẽ vào bài, bằng bút mực.
- Vẽ đúng nét liền, nét đứt.
Trình bày đủ ý, không làm tắt: Chỉ rõ đường cao, chỉ rõ cơ sở của các tính toán.
- Dựng góc, khoảng cách cần có chứng minh.
- Do tính toán ở phần này thường không thử lại được nên học sinh chú ý làmcẩn thận từng bước.
- Chú ý ghi đúng đơn vị. Ví dụ: Độ dài thì có a, diện tích thì có a2, thể tích thì có a3.
6) Hình giải tích trong không gian:
- Phần này có nhiều công thức. Các em chịu khó thuộc. Thuộc chính xác công thức là yêu cầu đầu tiên, không thể thiếu.
- Nắm được cách lập phương trình đường thẳng, mặt phẳng, mặt cầu
- Quan hệ của đường thẳng với mặt phẳng, mặt phẳng với mặt cầu.
Lưu ý khi làm bài:
- Viết đúng các ký hiệu: véc tơ, tọa độ, độ dài, tích vô hướng, tích có hướng,...
- Nếu không vẽ hình mà vẫn làm được bài thì không cần vẽ. Nếu chưa có phương pháp thì vẽ hình sẽ dễ tìm được phương pháp hơn.
- Hình giải tích rất nhiều con số và nhiều tính toán. Chú ý kiểm soát được các tính toán.
Thử lại đáp số. Ví dụ lập phương trình mặt phẳng đi qua 3 điểm thì cần thay 3 điểm để kiểm tra đáp số.
- Nên chọn phương pháp đơn giản, ngắn gọn.
- Trình bày đủ ý, gọi tên các ký hiệu: bán kính, véc tơ pháp tuyến,...
Một số lưu ý chung để làm bài toán hiệu quả:
- Dành ít nhất 5 phút để đọc đề bài: Gạch chân các từ quan trọng, ghi các lưu ý (đặt điều kiện, phương pháp làm), bấm đáp số tích phân, chọn thứ tự làm bài, chọn phần chuẩn hay nâng cao,...
- Dùng giấy nháp hợp lý: Nháp là để tìm phương pháp. Nếu đã biết cách làm thì làm luôn vào bài để tiết kiệm thời gian.
- Chú ý tính toán: Mỗi phép tính, phép biến đổi làm 2 lần. Xong bài nào kiểm tra bài đấy. Trước khi nộp bài cần xem lại các bài. Không nên ngồi chơi trước khi hết giờ làm bài.
- Phương châm: Đúng, đủ, đẹp (đẹp là viết rõ ràng, dễ đọc). Không tẩy xóa lem nhem, sai thì gạch, xuống dòng viết tiếp.
- Nhiều bạn đi thi tốt nghiệp về đều cho là đề Toán dễ, làm thừa thời gian, song vẫn không được 10 điểm. Lý do là chủ quan trong tính toán hoặc lỗi trình bày.
Chúc các em bình tĩnh, tự tin làm bài toán tốt nhất và có một kỳ thi tốt nghiệp thành công, là cơ sở cho kỳ thi tuyển sinh đại học sắp tới.
Theo báo Dân trí

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014

Chi phí đào tạo của ngành y

Chi phí đào tạo ngành Kinh tế kém 4 lần so với ngàng Y dược

Mục đích quy định phương thức và tiêu chí phân bổ chi thường xuyên cho cơ sở giáo dục đại học công lập nhằm thực hiện công khai, minh bạch trong phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước; tăng cường giám sát hoạt động chi tiêu ngân sách nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập.
Theo dự thảo Nghị định mà Bộ GD-ĐT công bố, hệ số hỗ trợ của ngân sách nhà nước từ nay đến năm 2020 theo khối ngành đào tạo như sau: Hệ số 1 áp dụng đối với sinh viên khối ngành Kinh tế và dịch vụ; Hệ số 1,2 áp dụng đối với sinh viên khối ngành Văn hóa; Hệ số 1,5 áp dụng đối với sinh viên khối ngành Khoa học cơ bản; Hệ số 1,8 áp dụng đối với sinh viên khối ngành Sư phạm; Hệ số 1,7 áp dụng đối với sinh viên khối ngành Nông - lâm - ngư; Hệ số 2 áp dụng đối với sinh viên khối ngành Công nghiệp, Giao thông và Xây dựng; Hệ số 2,5 áp dụng đối với sinh viên khối ngành Nghệ thuật.
Đặc biệt, hệ số hỗ trợ ngân sách nhà nước cho sinh viên khối ngành Y - dược cao nhất là hệ số 4.
Bên cạnh đó, dự thảo cũng đã đưa ra hệ số hỗ trợ của ngân sách Nhà nước theo chất lượng đào tạo. Cụ thể, hệ số 1 áp dụng đối với sinh viên cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm trung bình; Hệ số 1,2 áp dụng đối với sinh viên cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm khá; Hệ số 1,5 áp dụng đối với sinh viên cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm tốt; Hệ số 2 áp dụng đối với sinh viên cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm xuất sắc.
Ngoài ra, Nghị định cũng đưa hệ số hỗ trợ của ngân sách nhà nước theo vùng, miền. Hệ số 1, 2 áp dụng đối với sinh viên học tập ở các cơ sở giáo dục đại học đặt địa điểm tại các tỉnh thuộc vùng trung du và miến núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hệ số 1 áp dụng đối với sinh viên học tập ở các cơ sở giáo dục đại học đặt địa điểm tại các tỉnh, thành phố còn lại.
Hệ số hỗ trợ của ngân sách nhà nước cho đại học quốc gia, đại học vùng và đại học xuất sắc. Hệ số 1 áp dụng đối với sinh viên các trường không là thành viên của đại học quốc gia và đại học vùng; Hệ số 1,2 áp dụng đối với sinh viên các trường là thành viên đại học quốc gia và đại học vùng. Hệ số 1,5 áp dụng đối với sinh viên các trường đại học xuất sắc
Bộ GD-ĐT cũng dự kiến phân biệt điều kiện đảm bảo chất lượng của cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2020 theo hai tiêu chí tỉ lệ giảng viên/sinh viên và tỉ lệ tiến sĩ trong đội ngũ giảng viên, trong đó cơ sở ĐH đạt loại xuất sắc đồng thời phải bảo đảm tối thiểu có 4 giảng viên/100 sinh viên và số tiến sĩ đạt ít nhất 21% trong tổng số giảng viên của nhà trường. Đối với hệ cao đẳng các con số này lần lượt là 4/100 và 4%.
Theo nội dung của dự thảo, ưu tiên hỗ trợ đào tạo chất lượng cao; đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu cấp thiết; đào tạo ngành mới và những ngành nghề ít hấp dẫn người học, khó tuyển sinh nhưng Nhà nước và xã hội có nhu cầu sử dụng; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đại học.

Thứ Ba, 13 tháng 5, 2014

Sự xuống cấp về mặt đạo đức của học sinh, sinh viên bây giờ là một lời cảnh tỉnh cho các nhà giáo dục

Giải đáp hiện tượng học sinh sinh viên xuống cấp về mặt đạo đức.

Một số lượng lớn học sinh, sinh viên hiện nay đề cao lối sống thực dụng, ích kỉ, thích hưởng thụ, đua đòi, xa hoa lãng phí, xem nhẹ giá trị tinh thần. Không quan tâm đến cộng đồng, người xung quanh, ít tham gia các hoạt động tình nguyện, hoạt động xã hội và cộng đồng; sống khép mình, đề cao chủ nghĩa cá nhân, xa rời tập thể, có một số HS, SV vi phạm pháp luật nghiêm trọng gây bức xúc trong nhân dân.
Đó là những đánh giá được Bộ GD-ĐT đưa ra trong thông báo kết quả Hội thảo toàn quốc về công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho HS, SV. Hội thảo này đã nhận được 314 báo cáo (gồm: 59 báo cáo của các sở GD-ĐT; 107 báo cáo của các trường đại học; 106 báo cáo của các trường cao đẳng; 42 báo cáo của các trường trung học, trung cấp chuyên nghiệp); Hội thảo đã xuất bản kỷ yếu gồm 33 báo cáo tham luận của các nhà quản lý, các chuyên gia giáo dục và đại diện các cơ sở giáo dục trên cả nước. Hội thảo cũng đã nhận được nhiều ý kiến tham gia có chất lượng về đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp để tăng cường công tác giáo dục đạo đức, lối sống (ĐĐLS) cho HS, SV trong thời gian tới.
Giáo dục ĐĐLS còn yếu kém và bất cập
Theo đánh giá của các chuyên gia tham dự hội thảo thì giáo dục ĐĐLS cho HS, SV là công tác quan trọng, thường xuyên, liên tục của ngành Giáo dục. Cả cán bộ, giáo viên và HS, SV đều coi trọng công tác giáo dục ĐĐLS.
Trong những năm gần đây, công tác giáo dục ĐĐLS cho HSSV đã được đổi mới nội dung và phương pháp thực hiện và thu được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, cùng với sự biến đổi nhanh chóng của đời sống xã hội và những tác động mặt trái của kinh tế thị trường, công tác này còn bộc lộ những mặt hạn chế, yếu kém nhất định. Thực tiễn cho thấy, những tồn tại, hạn chế trong công tác giáo dục ĐĐLS cho HS, SV được thể hiện khá rõ nét. Cụ thể, chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường chưa đáp ứng được yêu cầu mới hiện nay, phương pháp giáo dục ở nhiều nơi chậm đổi mới do tư duy giáo dục chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.
Các điều kiện đảm bảo cho công tác giáo dục ĐĐLS còn nhiều bất cập: Đội ngũ giáo viên phụ trách công tác giáo dục ĐĐLS còn thiếu, chưa được đào tạo bài bản. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất trong các nhà trường chưa đáp ứng yêu cầu vui chơi, rèn luyện sức khỏe cho HS, SV; ngân sách cấp cho công tác này chưa được ưu tiên.
Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành và các địa phương chưa được thể chế hóa nên nhiều cấp chính quyền thiếu chủ động trong việc đưa ra chủ trương và giải quyết các vấn đề cụ thể của công tác giáo dục tại địa phương. Công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội còn lỏng lẻo, cơ chế trao đổi còn yếu và xử lý thông tin chậm được xử lý.
Ngoài ra, các yếu tố tiêu cực, khách quan của xã hội thâm nhập vào nhà trường, ảnh hưởng xấu tới ĐĐLS của HS, SV. Một bộ phận giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và người lớn, cha mẹ HS chưa làm gương cho HS, SV noi theo. Ở các trường ĐH, CĐ, TCCN, công tác quản lý HS,SV, nhất là HS, SV ngoại trú còn rất hạn chế, chưa thực sự đảm bảo an toàn, an ninh trường học.
Những giải pháp đột phá để thay đổi
Để giải quyết những vấn đề trên, Bộ GD-ĐT cho biết thời gian tới sẽ tiếp tục đổi mới phương pháp tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ĐĐLS trong các nhà trường; Xác định cơ chế quản lý, phối hợp và điều kiện đảm bảo kinh phí, đánh giá kết quả sự phối hợp giáo dục đạo đức, lối sống giữa: nhà trường với gia đình, nhà trường với chính quyền địa phương và nhà trường với các tổ chức Đoàn, Đội, Hội.
Quy định nội dung, yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ, điều kiện đảm bảo và tổ chức bồi dưỡng nâng cao thường xuyên đối với cán bộ, giáo viên trực tiếp làm công tác giáo dục ĐĐLS cho HS, SV, cũng như trách nhiệm của lãnh đạo và đội ngũ cán bộ, thầy cô giáo trong các nhà trường; Có quy định mới về bố trí giáo viên tư vấn học đường, hỗ trợ học tập, rèn luyện cho học sinh trong các trường phổ thông. Xem xét việc thành lập tổ/bộ phận tư vấn học đường (nhất là tư vấn tâm lý, kiến thức kỹ năng sống...) để hỗ trợ HS, SV trong mỗi nhà trường.
Ngoài ra, xây dựng cơ chế để duy trì việc đối thoại giữa cán bộ quản lý, nhà giáo và người học, giữa nhà trường và gia đình học sinh; Xây dựng cơ chế hỗ trợ, quản lý, giáo dục HS đối với Ban đại diện cha mẹ HS, tổ chức Đoàn, Đội, Hội và chính quyền, các tổ chức xã hội - chính trị tại địa phương; Đề xuất cơ chế cụ thể trong việc phối hợp giữa Bộ GD-ĐT với các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương để cùng nhau triển khai các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ĐĐLS cho HS, SV trong thời gian tới.
Thực hiện các giải pháp này thì trước mắt sẽ triển khai các nhiệm vụ trọng tâm như tuyên truyền cho toàn xã hội, việc giáo dục ĐĐLS cho HS, SV là nhiệm vụ chung của nhà trường, gia đình và xã hội. Xây dựng kế hoạch, tài liệu và phối hợp tổ chức truyền thông về các bài học kinh nghiệm, gương điển hình người tốt, việc tốt cho HS, SV. Tránh việc tuyên truyền một chiều (chỉ nêu các mặt trái và hạn chế của các vụ việc, hiện tượng có ảnh hưởng xấu trong HS, SV).
Tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, giáo viên, giảng viên, cha mẹ HS về tầm quan trọng của công tác giáo dục ĐĐLS cho HS, SV.
Bộ GD-ĐT sẽ rà soát các văn bản hiện có, đề xuất xây dựng và ban hành đầy đủ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch, hướng dẫn về công tác giáo dục ĐĐLS cho HS, SV. Các văn bản cần quy định cụ thể về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, sự phối hợp của các Bộ, ban, ngành, địa phương trong công tác giáo dục ĐĐLS cho HS, SV trong trường phổ thông, TCCN, CĐ và ĐH.
Xây dựng chế độ, chính sách đảm bảo thực hiện công tác giáo dục ĐĐLS cho HS, SV. Các cấp quản lý và cơ sở giáo dục cần triển khai thực hiện và vận dụng có hiệu quả, phù hợp với điều kiện thuộc phạm vi quản lí.
Xây dựng bộ tài liệu giáo dục ĐĐLS cho HS, SV cho phù hợp với từng đối tượng, độ tuổi và cấp học. Nghiên cứu đổi mới nội dung, tiến hành rà soát, lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức trong sách giáo khoa, giáo trình và hoạt động giáo dục theo các tiêu chí xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục. Đồng thời, cần xây dựng tài liệu hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về giáo dục ĐĐLS cho cán bộ giáo viên, giảng viên; xem xét đưa nội dung và phương pháp giáo dục ĐĐLS cho HS, SV vào chương trình đào tạo ở các trường sư phạm. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng các cán bộ, giảng viên trực tiếp thực hiện công tác giáo dục ĐĐLS cần được tập huấn, cập nhật, nâng cao trình độ chuyên môn hàng năm…

Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014

Trường Đại học điện lực tuyển sinh cao đẳng nghề

Bạn cần một nghề để tạo lập cuộc sống. Với xã hội ngày nay của nước ta hiện nay thầy nhiều hơn thợ, đang dẫn tới việc thiếu rất nhiều người có tay nghề cao. Vì vậy trường đại học điện lực đã mở ra Cao đẳng nghề để giúp cho xã hội có một sự cân bằng




TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC                   CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC               ĐỘC LẬP - TỰ DO -  HẠNH PHÚC
ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
Thông báo tuyển sinh Cao đẳng nghề

Trường Đại học Điện lực thông báo tuyển sinh hệ Cao đẳng nghề năm 2014:
1.  Chuyên ngành đào tạo:
   -  Hệ thống điện
   - Điện tự động hóa
   - Điện Công nghiệp và Dân dụng
   - Điện tử viễn thông
   - Công nghệ thông tin
2. Chỉ tiêu tuyển sinh: 1000
3. Thời gian đào tạo: 3 năm
4. Đối tượng tuyển sinh: -Học sinh tốt nghiệp PTTH hoặc tương đương
5. Phương thức tuyển sinh: Xét tuyển dựa trên kết quả học tập ở bậc ptth của thí sinh
6. Quyền lợi sinh viên:
- Sau khi tốt nghiệp hệ CĐN sinh viên có đủ điều kiện để liên thông lên các trường Đại Học. ( theo quy định chung của Bộ GD & ĐT).
-  Sau khi tốt nghiệp sinh viên giới thiệu vào làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài nước & đi xuất khẩu lao động
- Trong quá trình học sinh viên được giới thiệu các công việc làm thêm theo đúng nghành nghề học
7. kế hoạch tuyển sinh:
- Thời gian nhận hồ sơ: Từ ngày 20 tháng 02 năm 2014
- Thời gian xét tuyển và nhận giấy báo xét tuyển:  Tháng 4 năm 2014
- Nhập học: Tháng 4 năm 2014
8. Tập hồ sơ bao gồm:
+Sơ yếu lý lịch
+ Đơn xin xét tuyển
+ Bằng tốt nghiệp THPT hoặc BT THPT (sao công chứng)
+ Học bạ THPT hoặc BT THPT (sao công chứng)
+ Lệ phí tuyển sinh: 100.000đ/1 thí sinh. Nộp lệ phí tuyển sinh khi nộp hồ sơ.
9. Lưu ý:
     Trong quá trình học sinh viên được giới thiệu công việc làm thêm phù hợp với chương trình đang học. Sau khi ra trường sinh viên được giới thiệu vào làm việc tại các công ty tập đoàn trong và ngoài nước.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
 Phòng 206 – Số 54 Vũ Trọng Phụng – Thanh Xuân – Hà Nội. (Trong Trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Hà Nội 1)
Điện thoại: 043.5578944 – 0934.559.969
Địa chỉ mail: nguyenlananhdt@gmail.com

Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2014

Không thi tốt nghiệp vẫn đỗ Bộ trả lời sao?

Bộ GD-ĐT nói gì về việc không cần thi vẫn đỗ tốt nghiệp?

PGS.TS Mai Văn Trinh: Điều 33 của Quy chế thi tốt nghiệp THPT hiện hành quy định bảo lưu điểm thi cho thí sinh dự thi tốt nghiệp GDTX như sau:Thí sinh dự thi đủ các môn quy định trong kỳ thi năm trước nhưng chưa tốt nghiệp và không bị kỷ luật huỷ kết quả thi thì được bảo lưu điểm của các môn thi đạt từ 5,0 điểm trở lên cho kỳ thi tổ chức trong năm tiếp ngay sau đó nếu có quy định thi các môn đó.
Các thí sinh có điểm bảo lưu theo quy định được dự thi một trong hai cách: Thi tất cả các môn thi quy định trong kỳ thi; Chỉ thi các môn thi không có điểm bảo lưu.
Thực hiện quy định này, với việc giảm số môn thi từ 6 môn trước đây xuống còn 4 môn, sẽ có trường hợp thí sinh dự thi GDTX năm 2013 nhưng trượt tốt nghiệp, đăng ký dự thi năm 2014 gồm 4 môn được bảo lưu điểm thi. Có thể sẽ có thí sinh đỗ tốt nghiệp mà không cần phải dự thi. Nhưng cần phải lưu ý rằng, với quy định mới về việc xét công nhận tốt nghiệp thì tổng điểm của 4 môn (điểm thi hay điểm bảo lưu) chỉ chiếm 50% tổng điểm xét tốt nghiệp.
Bộ GD-ĐT nói gì về việc không cần thi vẫn đỗ tốt nghiệp?
 
Năm nay việc tổ chức thi ngoại ngữ có thêm phần viết luận và Bộ GD-ĐT bố trí hoàn thành xong trắc nghiệm và nộp bài mới làm tự luận. Vậy thời gian làm trắc nghiệm là bao nhiêu lâu? Viết luận là bao nhiêu? Mức điểm dành cho phần trắc nghiệm và viết luận là như thế nào? Việc yêu cầu nộp phần trắc nghiệm mới làm viết luận có gây khó khăn cho Hội đồng thi hay không, thưa ông?
PGS.TS Mai Văn Trinh: Công văn số 1656/BGDĐT-KTKĐCLGD ngày 1/4/2014 đã hướng dẫn cụ thể việc coi thi môn Ngoại ngữ như sau: “Giám thị phát đề thi cho thí sinh. Thí sinh làm bài phần trắc nghiệm trước; sau khi hết thời gian làm bài phần trắc nghiệm, giám thị thu ngay Phiếu trả lời trắc nghiệm; thí sinh bắt đầu làm bài phần viết. Phiếu trả lời trắc nghiệm và bài thi phần viết phải để riêng trong 2 túi khác nhau kèm theo Phiếu thu bài thi của mỗi phần”
Theo hướng dẫn này, các Hội đồng coi thi sẽ không gặp khó khăn gì khi tổ chức thi môn Ngoại ngữ; việc làm bài thi của thí sinh cũng hoàn toàn không có trở ngại nào.
Về thời gian làm bài và mức điểm cho từng phần, Bộ đang xem xét và tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các giáo viên ngoại ngữ để xác định tỷ lệ giữa phần viết và trắc nghiệm nhằm đánh giá thực chất hơn năng lực ngoại ngữ của học sinh, phù hợp với điều kiện dạy học ngoại ngữ.
Thưa Cục trưởng, xuất phát từ đâu mà Bộ GD-ĐT đưa ra mức điểm liệt ở kì thi tốt nghiệp THPT năm nay là 1 điểm thay cho 0 điểm trước đây?
PGS.TS Mai Văn Trinh: Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW): “Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng giảm áp lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng năng lực học sinh” và “Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học”, Bộ GDĐT đã điều chỉnh phương án thi TN THPT năm 2014 với một số đổi mới cơ bản như: giảm số môn thi, cho thí sinh tự chọn môn thi và phối hợp sử dụng kết quả thi và kết quả đánh giá quá trình học tập để xét công nhận tốt nghiệp cho thí sinh.
Đi liền với những đổi mới này, việc quy định điểm liệt là 1,0 điểm thay cho 0 điểm như trước đây là giải pháp nhằm nâng cao chuẩn điều kiện công nhận tốt nghiệp, nâng cao chất lượng của kỳ thi. Quy định này đã được xây dựng trên cơ sở tham khảo ý kiến rộng rãi và nhận được sự đồng thuận rất cao của các sở GD-ĐT.
Cục trưởng có thể giải thích vì sao lại quy định không trộn lẫn thí sinh của hai trường phổ thông nếu thi liên trường mà phải tách riêng. Việc tách riêng này liệu có đảm bảo sự an toàn, nghiêm túc hay không khi mà kì thi là cuộc chơi “nội bộ” của một trường?
PGS.TS Mai Văn Trinh: Việc tổ chức thi liên trường, cụm trường trước đây với quy định xếp thí sinh các trường phổ thông khác nhau trong cùng 1 phòng thi ở các Hội đồng coi thi đã từng dẫn đến hiện tượng “cứu thi”: thí sinh ở trường có chất lượng thấp được thí sinh ở trường chất lượng cao hơn hỗ trợ làm bài thi. Đây là 1 trong những nguyên nhân làm cho khâu coi thi còn là khâu yếu trong quy trình tổ chức thi. Do đó quy chế thi mới đã qui định không “trộn” thí sinh của các trường trong phòng thi.

Thứ Ba, 6 tháng 5, 2014

Cách ôn để lấy điểm cao mà 2 môn học sinh chúng ta ớn nhất trong các năm học

Cách ôn để lấy điểm cao môn sử, địa

Hệ thống kiến thức theo từng thời kỳ
Với môn sử, đa số học sinh thường than phiền rằng có học nhưng hay quên, hay có học nhưng không biết trả lời câu hỏi như thế nào. Sở dĩ như vậy là vì học sinh học bài một cách máy móc (học vẹt), cố đưa kiến thức vào mà không hiểu, không biết hệ thống lại kiến thức nên dễ quên và khó vận dụng vào việc giải đề thi.
Để ôn tập hiệu quả, nhớ lâu và vận dụng được kiến thức để giải đề thi môn sử, học sinh cần có kế hoạch ôn tập cụ thể, nắm thời gian từ nay đến ngày thi để phân bố nội dung ôn tập phù hợp, tránh bị động, tránh dồn nén, quá tải vào giai đoạn cuối.
Học sinh cần nắm chắc kiến thức cơ bản từng bài, lập dàn ý để học, tránh sa đà quá tải. Biết hệ thống lại toàn bộ kiến thức theo từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử cụ thể, những nội dung chính của các thời kỳ, giai đoạn lịch sử đó, mối liên hệ kiến thức trong từng thời kỳ, liên hệ kiến thức giữa lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới.
Ví dụ: Phần lịch sử thế giới hệ thống lại kiến thức học theo từng vấn đề: Các tổ chức: Liên Hiệp Quốc, ASEAN, EU…; Các nước (Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản…); các khu vực (Đông Nam Á, châu Phi, Mỹ La tinh, Tây Âu…).
Hai cách ôn tập môn địa lý
Có 2 cách làm cho việc ôn tập môn địa lý của học sinh trở nên nhẹ nhàng và kết quả bài thi sẽ tốt hơn.
Một là ôn tập dựa trên Atlat và khai thác kiến thức từ tài liệu này, vì nhiều nội dung trong đề thi có sẵn câu trả lời trên Atlat. Ngoài ra, Atlat còn giúp học sinh thấy được tình hình phát triển của một hoạt động kinh tế, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng thời kỳ… Các dạng biểu đồ trên Atlat (biểu đồ tròn, biểu đồ cột, biểu đồ kết hợp cột và đường, biểu đồ miền) có thể giúp học sinh tham chiếu để rèn luyện và hình thành kỹ năng vẽ biểu đồ. Biểu đồ trên Atlat còn cung cấp cho học sinh những số liệu thống kê để minh họa cho phần trình bày kiến thức.
Cách ôn tập thứ hai là thiết lập bản đồ tư duy cho phần kiến thức không có trong Atlat, giúp học sinh dễ hiểu, dễ thuộc và lâu quên.
Các đơn vị kiến thức sau đây có thể đưa vào bản đồ tư duy: đặc điểm của một hiện tượng địa lý, nguồn lao động; các thành phần của một đối tượng địa lý; vai trò, vị trí của một đối tượng địa lý...
Ngoài ra, trong hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2013 - 2014, Bộ GD-ĐT còn lưu ý việc tuyên truyền, giáo dục về chủ quyền biển, đảo; bảo vệ môi trường; đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên; giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo; ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai. Cho nên, học sinh cũng cần suy nghĩ thêm về các lưu ý này.
Chính vì vậy nên muốn học và ộn thi 2 môn này không cần 

Thứ Hai, 5 tháng 5, 2014

Ngành y đang lên ngôi nhưng vẫn đứng sau khối ngành kinh tế đây là kết quả nộp hồ sơ đại học năm nay

Đăng ký dự thi ĐH, CĐ: Giảm số lượng, cảnh báo về chất lượng
Hồ sơ dự thi giảm tới 30%
Đó là con số mà bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Trưởng phòng Giáo dục thường xuyên Sở GD&ĐT Hải Phòng dẫn khi nói về số lượng hồ sơ đăng ký dự thi (ĐKDT) vào đại học (ĐH), cao đẳng (CĐ) năm 2014 của thí sinh tại Hải Phòng. 
Ông Nguyễn Văn Long, trưởng phòng GD chuyên nghiệp, Sở GD&ĐT tỉnh Thanh Hóa cũng đưa ra con số gần 49.000 của tỉnh Thanh, giảm 14.000 hồ sơ so với năm ngoái, trong khi năm ngoái tỉnh này cũng giảm gần 16.000 hồ sơ so với 2012. 
Ông Phạm Hữu Bản, chuyên viên xử lý phần mềm máy tính ĐH, CĐ Sở GD&ĐT Thái Bình cho hay đơn vị này đã xử lý 35.785 hồ sơ, giảm hơn 8.000 so với năm 2013. Về lý do giảm, đại diện mỗi tỉnh có một lý giải.
Theo ông Nguyễn Văn Long sau thông tin 72.000 cử nhân trên cả nước tốt nghiệp thất nghiệp và thực tế các công ty của tỉnh này, từ xuất khẩu da giày đến may mặc đều đua nhau tuyển lao động đơn giản với mức lương cao hơn lương cử nhân, từ 3 đến 4 triệu đồng/tháng, nhiều học sinh đã ngộ ra rằng, nếu khả năng thi đỗ ĐH không cao, đi làm ngay sau khi tốt nghiệp để kiếm sống là một lựa chọn thực sự tốt. Một sự thật mà không ai mong muốn mỗi khi đăng kí hồ sơ lại liên tục diễn ra trong hoàn cảnh hiện nay.
Số lượng hồ sơ ĐKDT không còn ảo như trước do thí sinh ngày càng sát thực tế hơn là lý do bà Nguyễn Thị Thanh Hà đưa ra: kinh tế ngày một khó khăn, thí sinh không nộp 7-8 hồ sơ khi mà giá lệ phí thi và đăng ký thi đã lên 105.000 đồng/bộ (lệ phí thi môn năng khiếu là 360.000 đồng/bộ hồ sơ trong khi con em nông dân phải tính đến từng xu, ông Long dẫn). 
Ông Phạm Hữu Bản thì phản ánh: các trường dạy nghề đang lùng sục vào các trường phổ thông để tuyển sinh và rất thành công trong việc này.
                                  số lượng hồ sơ không còn ảo như mọi năm
Ngành y lên ngôi, khối C vẫn héo hắt
Phân tích cơ cấu chọn ngành nghề trong số lượng hồ sơ của thí sinh từ các tỉnh là rất khác nhau, Ở Hải Phòng, theo bà Hà, xu hướng thi vào kinh tế giảm hẳn; các ngành khác, hồ sơ rải rác và không chụm; một số ngành như kỹ thuật; kinh tế hay quản trị nhân lực có xu hướng rõ hơn.
Ở Thanh Hóa, xu hướng chọn nghề của thí sinh không mấy thay đổi, ông Long nói, mặc dù đã cảnh báo nhưng thí sinh vẫn đăng ký thi vào kinh tế nhiều. Các con số chọn ngành cụ thể 10 trường cao nhất của tỉnh này như sau: ĐH Công nghiệp Hà Nội có 4.400 hồ sơ, kế đến là các ĐH: Hồng Đức, ĐH Nông nghiệp… 
Năm nay, ĐH Kinh tế kỹ thuật CN có tới gần 4.700, số hồ sơ thi vào Học viện Tài chính của thí sinh tỉnh này năm ngoái đứng thứ 26, năm nay đã tiến tới đứng hạng 5 với gần 1.600 hồ sơ; ĐH Y Thái Bình đứng thứ 6 và tiếp theo là ĐH Tài nguyên môi trường, ĐH Kinh tế quốc dân, ĐH Thương mại, ĐH Giao thông vận tải.
Tại Thái Bình, ông Bản nói, trong khi số lượng hồ sơ thi khối A và B rất đông thì số lượng hồ sơ thi khối C chỉ chiếm từ 3% đến 5% tổng số hồ sơ dự thi. Đặc biệt, theo ông Bản, hồ sơ thi vào các trường y từ ĐH đến CĐ và trung cấp y đều rất đông, tạo cảm giác năm nay ngành y được học sinh ưa chuộng vì vẫn có đầu ra.
Nhìn hồ sơ, lo chất lượng
Nhận xét chung về hồ sơ ĐKDT ĐH năm nay, một nhà tuyển sinh nói: chúng ta “đẻ” ra nhiều trường ngoài công lập (NCL) quá và nhiều trong số các trường này “kêu gào”, đòi điều kiện tuyển sinh thế này thế khác để đạt được tuyển sinh không qua thi tuyển; nhưng kết cục, theo số lượng hồ sơ ĐKDT của thí sinh, cả tỉnh với 36.000 hồ sơ dự thi chỉ vỏn vẹn có 30 hồ sơ xin xét tuyển vào trường tuyển sinh riêng! 
Một nhà quản lý giáo dục tỉnh Thái Bình nói: thí sinh có thi vào hay không, chất lượng đào tạo cũng là một yếu tố, điều này đặc biệt có ý nghĩa trong tình hình nhiều nơi công bố chỉ tuyển cử nhân giỏi hệ đào tạo chính quy.
Trong lúc dư luận còn lo ngại về chất lượng năm nay, chạy theo đòi hỏi của các trường NCL, Bộ cho phép hơn 60 trường tuyển sinh riêng, không thi, không điểm sàn mà dựa trên điểm THPT, một thông số chưa ai tin, chất lượng sẽ còn thấp nữa, ông Long dự báo. Thêm một mối lo ngại cần được xem xét, theo đề nghị của một nhà quản lý giáo dục một tỉnh Bắc Trung Bộ, là chất lượng của hệ đào tạo vừa học vừa làm (VHVL).
Theo nguồn tin này, hệ VHVL là thay thế cho hệ đào tạo tại chức trước đây nhưng cũng không bằng tại chức ở chỗ, tại chức là dành cho những người đã đi làm, học để nâng cao trình độ; với hệ VHVL thí sinh trượt ĐH có thể vào học và được cấp bằng ĐH bình đẳng như bằng ĐH chính quy. 
Đó là con đường vòng để những thí sinh thi trượt ĐH có tấm bằng ĐH trong khi loại hình này đào tạo không bài bản, chất lượng thấp, học hộ thi hộ… Đó là lý do người vào học hệ này nhiều thêm nhưng cuối cùng, xã hội mới là nơi gánh 

Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2014

Cảnh báo cảu Bộ giáo dục chỉ là cảnh báo. còn con đường, tương lai là tùy thuộc vào các bạn

Thí sinh vẫn đổ xô chọn ngành đã cảnh báo thất nghiệp
Hà Nội là địa bàn năm nào số lượng hồ sơ đăng ký dự thi (ĐKDT) ĐH, CĐ luôn đông nhất nước, theo thống kê sơ bộ của Sở GD-ĐT Hà Nội, năm nay lượng hồ sơ đăng ký dự thi ĐH, CĐ giảm hơn so với năm trước. Số hồ sơ nhận được 152.000 hồ sơ, so với năm trước giảm 1,3 vạn hồ sơ (con số này chưa bao gồm hồ sơ của thí sinh tự do). Hà Nội có khoảng 80.000 học sinh lớp 12, như vậy trung bình mỗi em nộp xấp xỉ 2 bộ hồ sơ.
Nhóm ngành Kinh tế, Tài chính ngân hàng mặc dù đã được khuyến cáo thừa nguồn nhân lực và Bộ GD- ĐT đã cắt giảm chỉ tiêu cho khối ngành này nhưng vẫn rất đông thí sinh Hà Nội nộp hồ sơ ĐKDT. Cụ thể: Học viện Tài chính có 4.700 hồ sơ; ĐH Kinh tế Quốc dân có 4.900 hồ sơ; Học viện Ngân hàng cũng có 4.900 hồ sơ và ĐH Thương mại có 3.800 hồ sơ…
Khối ngành Kỹ thuật, Sư phạm số lượng hồ sơ nộp đông nhất vẫn là trường ĐH Công nghiệp Hà Nộí, 8.500 hồ sơ; tiếp đến là ĐH Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp 8.100 hồ sơ. Trường ĐH Sư phạm Hà Nội có hơn 6.000 hồ sơ; đặc biệt CĐ Sư phạm Hà Nội chỉ có gần 4.000 hồ sơ, giảm khá mạnh.
Xếp sau Hà Nội về số lượng hồ sơ ĐKDT ĐH, CĐ năm nay là tỉnh Thanh Hóa, tỉnh này có số lượng thí sinh ĐKDT giảm hơn 1,4 vạn hồ sơ (năm 2013, Thanh Hóa giảm hơn 1,6 vạn hồ sơ). Tương tự như Hà Nội, trong số hồ sơ ĐKDT của tỉnh Thanh Hóa, số lượng hồ sơ đăng ký vào nhóm ngành Tài chính ngân hàng vẫn đông.
Ông Nguyễn Văn Long - Trưởng phòng Giáo dục chuyên nghiệp, Sở GD-ĐT Thanh Hoá cho biết: “Cả tỉnh có 48.900 hồ sơ, trong đó một số trường đào tạo về Kinh tế có số lượng hồ sơ đông. Cụ thể, Học viện Tài chính năm trước đứng thứ 26 thì năm nay vượt lên vị trí thứ 5, với 1.599 hồ sơ; ĐH Kinh tế Quốc dân cũng vươn lên vị trí thứ 8 với 1.078 hồ sơ; ĐH Thương mại có 1.064 hồ sơ. ĐH Tài nguyên Môi trường xếp ở vị trí thứ 7 trong nhóm ngành này với 1.216 hồ sơ”.
Về nhóm ngành trường khác, số lượng hồ sơ thí sinh nộp đông vẫn dẫn đầu là trường ĐH Công nghiệp với 4.321 hồ sơ, tiếp đến là trường nhà là ĐH Hồng Đức có 4.088 hồ sơ; ĐH Nông nghiệp có 3.245 hồ sơ; ĐH Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp 2.721 hồ sơ và ĐH Y Thái Bình có 1.337 hồ sơ; ĐH Y Hà Nội có 816 hồ sơ, giảm 50% vì năm 2013.
Khối trường ĐH Sư phạm, lượng hồ sơ giảm mạnh như trường ĐH Sư phạm Nghệ thuật Trung ương có 47 hồ sơ; ĐH Sư phạm Thái Nguyên có 21 hồ sơ; ĐH Sư phạm Hà Nội 2 có 67 hồ sơ; ĐH Giáo dục có 22 hồ sơ và ĐH Sư phạm Hà Nội có 499 hồ sơ.
Thiếu thông tin để lựa chọn ngành nghề
 
Ông Nguyễn Văn Long, Sở GD-ĐT Thanh Hóa cho rằng: “Tình trạng dư thừa nguồn cử nhân thất nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa với con số 25.000 người đã tác động đến xu hướng chọn ngành nghề của thí sinh. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng thí sinh chọn ngành nghề mà không hề có sự tư vấn, hướng nghiệp như ngành Tài nguyên môi trường có tới 1.216 hồ sơ - chiếm tỷ lệ khá lớn trong khi nhóm ngành này cũng không nằm trong nhóm ngành được tuyên truyền đang cần nhân lực. Như vậy, rõ ràng là chúng ta vẫn còn khoảng trống về công tác hướng nghiệp, tư vấn”.
 
Nhận định về thực trạng phân luồng hiện nay, PGS.TS Đỗ Thị Bích Loan, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cho rằng, thông tin về thị trường lao động ở nước ta còn nghèo nàn và thiếu nên gia đình và học sinh không đủ thông tin để lựa chọn ngành nghề phù hợp.
Theo bà Loan, tâm lý thanh niên, học sinh chuộng bằng cấp, coi đại học là con đường duy nhất để thăng tiến trong nghề nghiệp cùng với sự chậm đổi mới tư duy giáo dục đã và đang là rào cản lớn đối với sự phát triển của giáo dục nghề nghiệp.
Bà Loan phân tích, thực tế lao động sản xuất, dịch vụ xã hội đã và đang làm thay đổi nhu cầu nhân lực kỹ thuật theo hướng đòi hỏi cao hơn về trình độ nghề nghiệp, đồng thời tăng số lượng lao động có trình độ TCCN và dạy nghề. Mặt khác, nhiều học sinh và gia đình không đánh giá đúng sức học của bản thân học sinh và điều kiện kinh tế gia đình để tìm con đường học nghề từ sớm.
Tâm lý sính bằng cấp không chỉ nặng nề trong tâm lý học sinh mà còn ảnh hưởng nặng nề trong xã hội. Ông Phạm Ngọc Thanh, Phó Giám đốc Sở GD-ĐT TPHCM cho rằng: “Trong xã hội còn nặng tâm lý bằng cấp, có thể hiểu vì sao việc phân luồng học sinh THCS vào trường nghề, TCCN lại trầy trật. Nhưng nói đi nói lại, những chính sách ưu đãi cho đào tạo nghề hiện nay chưa đủ thuyết phục phụ huynh, học sinh lựa chọn học nghề”.
Khoảng 350.000 học sinh tốt nghiệp THPT chưa biết học thêm nghề gì
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, Quy mô tuyển sinh vào ĐH, CĐ năm học 2011 - 2012 tăng hơn năm học trước quy mô tuyển sinh vào ĐH,CĐ trên 433.000 sinh viên chiếm 46,5% học sinh tốt nghiệp THPT. Trong khi đó, học sinh tốt nghiệp THPT vào TCCN là 208.833 học sinh chiếm 22,4%. Phần còn lại vào học nghề hoặc chưa tiếp tục học.
Theo thống kê trong năm học 2010 - 2011 cả nước có khoảng 185.000 học sinh tốt nghiệp THPT nhưng không vào ĐH,CĐ hoặc TCCN. Năm 2011 - 2012, con số này là 290.000. Đặc biệt số học sinh bỏ học và trượt tốt nghiệp khá lớn trong 2 năm qua. Năm 2010 - 2011 có khoảng 163.000 học sinh, năm 2011 - 2012 khoảng 109.000 trượt tốt nghiệp và bỏ học giữa chừng.
Nếu cộng cả số học sinh tốt nghiệp THPT chưa tiếp tục học với số học sinh bỏ học và trượt tốt nghiệp hàng năm thì con số này khoảng 350.000 học sinh. Nếu những học sinh này được học nghề từ sớm thì hiệu quả kinh tế cao hơn.